- Đơn vị chủ trì: Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại

- Chủ nhiệm nhiệm vụ: ThS. Hoàng Hải

- Năm giao nhiệm vụ: 2016 Mã số: 2016-14

1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu

Trong bối cảnh kinh tế ngày càng hội nhập thì yêu cầu về vấn đề minh bạch hóa các mối quan hệ kinh tế càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Do đó, việc sử dụng công cụ xếp hạng tín nhiệm đối với cả cấp quốc gia hay cấp doanh nghiệp ở các nước trên thế giới đã trở nên phổ biến. Tại Việt Nam, tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế là Moody’s (một trong ba tổ chức xếp hạng tín nhiệm danh tiếng trên thế giới) đã thực hiện đánh giá mức độ rủi ro quốc gia Việt Nam từ những năm 1990 nhưng khái niệm về xếp hạng tín nhiệm quốc gia vẫn còn là vấn đề quá mới mẻ, chưa được quan tâm do Việt Nam trong giai đoạn đó vẫn nằm trong nhóm quốc gia nghèo, đang nhận được nhiều sự trợ giúp của các nhà tài trợ quốc tế dưới dạng viện trợ hoặc hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Phải tới năm 2005, khi Chính phủ lần đầu tiên tiếp cận thị trường vốn quốc tế thông qua hình thức phát hành trái phiếu của Chính phủ, mà theo thông lệ thì Chính phủ cần phải được ít nhất 2 tổ chức xếp hạng, vai trò của xếp hạng tín nhiệm quốc gia mới thực sự trở nên quan trọng bởi mức xếp hạng tín nhiệm thể hiện khả năng cạnh tranh của quốc gia trên thị trường quốc tế, phản ánh năng lực của quốc gia trong việc thu hút vốn đầu tư.

Cải thiện mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Một mặt, đây là vấn đề về uy tín quốc gia trên trường quốc tế. Mặt khác, trong bối cảnh Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình, nguồn vốn ODA dành cho Việt Nam giảm dần, từ năm 2015 đã phải dựa nhiều hơn vào các nguồn vốn vay ưu đãi, vay thương mại trên thị trường vốn quốc tế. Việc cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia sẽ giúp Chính phủ cũng như các doanh nghiệp, định chế tài chính và tổ chức tín dụng khi thực hiện huy động vốn vay hoặc phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế có thể giảm được chi phí huy động vốn.

Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 304/QĐ-TTg ngày 06/02/2013 về việc phê duyệt Đề án nâng cao xếp hạng tín nhiệm quốc gia, trong đó đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 từng bước nâng bậc xếp hạng tín nhiệm đạt mức xếp hạng tín nhiệm tối thiểu bằng mức khởi điểm đầu tư (Baa3 đối với xếp hạng tín nhiệm của Moody’s, BBB- đối với xếp hạng của S&P và Fitch).

Kể từ khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án nêu trên, Việt Nam mới được 2 công ty xếp hạng tín nhiệm là Fitch và Moody’s nâng lên 1 bậc tín nhiệm vào năm 2014. Nếu theo thang bảng xếp hạng tín nhiệm của Moody’s thì Việt Nam phải cần tăng 4 bậc nữa thì mới đạt được mục tiêu đặt ra. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và đánh giá một cách tổng thể các yếu tố tác động đến xếp hạng tín nhiệm của quốc gia và thực tế tại Việt Nam là cần thiết, kết quả nghiên cứu bước đầu là cơ sở để đánh giá về khả năng đạt được mục tiêu về mức xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam như đã đặt ra trong đề án.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Hệ thống hóa các vấn đề về cơ sở lý luận về hệ số tín nhiệm quốc gia: Các yếu tố tác động đến xếp hạng tín nhiệm quốc gia trên cơ sở phân tích phương pháp luận đánh giá xếp hạng tín nhiệm quốc gia của 2 tổ chức tín nhiệm có uy tín và chiếm thị phần lớn nhất trên thế giới;

Đánh giá thực trạng về xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam, các yếu tố tác động đến xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam. Trên cơ sở phân tích, nghiên cứu các vấn về về cơ sở lý luận cũng như thực tế hoạt động xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam, và đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện các yếu tố tác động đến xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam.

3. Kết quả nghiên cứu

(1) Hệ thống hóa được các một số vấn đề cơ bản về hệ số tín nhiệm quốc gia như khái niệm, phân loại hệ số tín nhiệm, thang bảng xếp hạng tín nhiệm, triển vọng xếp hạng tín nhiệm, phương pháp xếp hạng tín nhiệm cho Chính phủ. Đồng thời, đã phân tích được một cách cơ bản những phương pháp xếp hạng tín nhiệm quốc gia của 2 tổ chức có uy tín và lớn trên thế giới là Standards & Poors và Moody’s; diễn biến thay đổi mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia của một số nước có nhiều điểm tương đồng về mức độ phát triển với Việt nam như: Indonesia, Malaysia và Sri Lanca.

(2) Đề tài đã phân tích, đánh giá được kết quả xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam, những yếu tố tác động đến xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam đó là: Môi trường chính trị và thể chế; Cơ cấu kinh tế và triển vọng tăng trưởng kinh tế; Chính sách tài khóa, nợ công, nợ chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia; Chính sách tiền tệ và hệ thống ngân hàng; Tổ chức hoạt động xếp hạng tín nhiệm quốc gia và nêu rõ những kết quả đạt được, cụ thể:

+ Công tác đánh giá xếp hạng tín nhiệm quốc gia từng bước triển khai một cách chủ động hơn, nhận thức về tín nhiệm quốc gia và doanh nghiệp ngày càng được nâng lên. Bộ Tài chính đã chủ động trao đổi với các chuyên gia phân tích về các mối quan tâm và phối hợp với các cơ quan liên quan để chuẩn bị nội dung trước các đợt làm việc. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cũng thường xuyên đề xuất gặp và trao đổi với đại diện của Ủy ban xếp hạng, bộ phận cấp cao có trách nhiệm xem xét và có quyền quyết định mức xếp hạng tín nhiệm của quốc gia trên cơ sở báo cáo của chuyên gia phân tích, của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm nhằm cập nhật các thông tin về kinh tế, xã hội, chính trị để phục vụ cho quá trình đánh giá.

+ Việc hợp tác giữa các cơ quan của Việt Nam với các công ty đánh giá xếp hạng tín nhiệm quốc tế trong thời gian qua về cơ bản được triển khai phù hợp với thông lệ quốc tế. Các Bộ, ngành, cơ quan có liên quan từng bước chủ động hơn trong việc chuẩn bị các thông tin, số liệu phục vụ cho quá trình đánh giá xếp hạng tín nhiệm, đồng thời có giải thích kịp thời nhằm làm rõ những vấn đề mà các cơ quan xếp hạng tín nhiệm yêu cầu, góp phần thực hiện tốt công tác đánh giá xếp hạng tín nhiệm được Chính phủ phân công.

+ Về môi trường chính trị và thể chế: Nhìn chung, theo quan điểm đánh giá của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s và S&P, môi trường chính trị ổn định và các vấn đề về rủi ro chính trị của Việt Nam ở mức tốt hơn so với các nước cùng nhóm BB/B1. Đây là yếu tố ổn định nhất, là căn cứ quan trọng để duy trì được xếp hạng tín nhiệm trong khi một số chỉ số kinh tế vĩ mô còn ở mức thấp hơn các nước có cùng mức xếp hạng tín nhiệm trong thời gian qua.

+ Về cơ cấu kinh tế và triển vọng tăng trưởng kinh tế: Cơ cấu kinh tế đã có chuyển biến tích cực, từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy lợi thế so sánh trong từng ngành, lĩnh vực, vùng và các thành phần kinh tế. Triển vọng tăng trưởng bền vững và việc tích luỹ đi kèm với tăng trưởng GDP của Việt Nam là một điểm mạnh. Chỉ tiêu thay đổi GDP thực tế trung bình của Việt Nam thời gian qua ở mức 5,8% cao hơn so với mức trung bình của các nước có hệ số tín nhiệm BB là 4,9%. Bên cạnh đó, Việt Nam là một nước có tỷ lệ đầu tư so với GDP luôn duy trì ở mức độ rất cao trong thời gian qua, ở mức trung bình giai đoạn 2006 - 2010 khoảng 42,7% GDP so với các nước có cùng hệ số tín nhiệm BB, trung bình 23,9% GDP. Hiện Chính phủ đang tiếp tục tiến hành tái cấu trúc nền kinh tế, đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức tín dụng, thị trường chứng khoán và các định chế tài chính để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là những nhân tố căn bản đối với xếp hạng tín nhiệm quốc gia.

+ Về chính sách tài khoá, nợ công, nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia: Hệ thống cơ chế, chính sách tài chính, ngân sách của Việt Nam tiếp tục được hoàn thiện; Tiềm lực tài chính quốc gia được tăng cường; Huy động từ ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển đang ngày càng được chú trọng; Việc sử dụng nguồn tài chính nhà nước theo hướng ưu tiên khuyến khích đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng bền vững; Điều hành chính sách tài khoá ngày càng linh hoạt, hiệu quả, đặc biệt là việc ứng phó với các biến động từ trong nước và quốc tế; thể chế chính sách quản lý về nợ đã từng bước được hoàn thiện, công tác quản lý nợ tiếp tục có chuyển biến tích cực, dần tiếp cận gần với các thông lệ tốt trên thế giới.

+ Về chính sách tiền tệ và hệ thống ngân hàng: Theo đánh giá của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm hệ thống ngân hàng Việt Nam đang dần hội nhập gần hơn với những tiêu chuẩn quốc tế, cụ thể: Cải cách hệ thống pháp luật về ngân hàng đang được hoàn thiện theo hướng đảm bảo tính an toàn, hợp lý và nâng cao trách nhiệm giải trình của hệ thống ngân hàng; Thực hiện tái cấu trúc các ngân hàng thương mại; Hoàn thiện các chuẩn mực kế toán, điều hành lãi suất và các giao dịch ngoại hối, hiện đại hoá công nghệ, hệ thống thanh toán, phát triển và đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng; Từ đầu năm 2016, công bố tỷ giá trung tâm biến động linh hoạt hàng ngày theo sát diễn biến thị trường trong, ngoài nước và phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ.

(3) Qua phân tích thực trạng và những nhân tố ảnh hưởng, đề tài cũng đã nhận diện rủi ro tác động đến xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam như:

+ Việc kiểm soát tham nhũng đã và đang là cố gắng đầy nỗ lực của Chính phủ Việt Nam, song vẫn là mối quan ngại đáng chú ý của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm trong quá trình đánh giá xếp hạng tín nhiệm quốc gia. Việc chấp hành các quy định của pháp luật, đặc biệt là việc thực thi các hợp đồng, bảo vệ quyền tài sản, đất đai..., của Việt Nam ở mức trung bình. Tình trạng lạm phát trong vòng một thập kỷ qua biến động khó lường và khả năng kiểm soát còn hạn chế.

+ Về cơ cấu kinh tế và triển vọng tăng trưởng kinh tế: Thu nhập bình quân đầu người vẫn ở mức thấp so với các nước trong cùng nhóm xếp hạng tín nhiệm. Tăng trưởng GDP tuy vẫn ở mức tương đối cao nhưng đang có xu hướng giảm dần. Chất lượng tăng trưởng chưa cao, có xu hướng giảm sút và có xu hướng thiên về chiều rộng, chủ yếu dựa vào gia tăng số lượng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên, nguyên liệu thô, chi phí sản xuất và tiêu hao còn ở mức cao; Hiệu quả của khu vực công và đầu tư công thấp; Số lượng lao động trong khu vực nông nghiệp lớn nhưng lại tạo ra mức sản lượng thấp tương đối so với 2 khu vực còn lại là một yếu tố chính làm cho chỉ tiêu GDP tính theo đầu người của Việt Nam ở mức thấp;

+ Rủi ro về tài khóa của Việt Nam còn ở mức cao do:Tính ổn định và bền vững trong cân đối ngân sách nhà nước chưa cao; Hiệu quả phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính còn bất cập; Một số thủ tục hành chính trong quy trình thực hiện chính sách tài khoá và ngân sách nhà nước còn chậm, phức tạp, chưa nhất quán và ổn định; Chỉ số nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia tuy vẫn trong tầm kiểm soát nhưng có rủi ro tiềm ẩn;

+ Về chính sách tiền tệ và hệ thống ngân hàng: Tăng trưởng tín dụng nhanh trong thời gian qua có thể dẫn đến gia tăng các khoản nợ xấu và rủi ro đối với khu vực ngân hàng; Sức ép về ngoại tệ để thanh toán các khoản vay ngắn hạn nước ngoài có xu hướng gia tăng, góp phần gây nên tình trạng căng thẳng trong cân đối cung cầu ngoại tệ.

+ Thông tin, số liệu và quy trình cung cấp giữa các cơ quan có liên quan cho công tác đánh giá xếp hạng tín nhiệm không kịp thời, nhất là số liệu về dự trữ ngoại hối, sử dụng các quỹ bình ổn, nợ các doanh nghiệp nhà nước, tình trạng tài chính của các ngân hàng, chương trình xử lý nợ xấu và lành mạnh hoá đối với các tổ chức tài chính yếu kém. Bên cạnh đó, chất lượng thông tin, số liệu cung cấp chưa phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Việc chủ động trao đổi và cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm còn hạn chế. Nguồn thông tin chính thức từ các Bộ, ngành, doanh nghiệp phục vụ trực tiếp công tác đánh giá xếp hạng tín nhiệm quốc gia và doanh nghiệp chưa kịp thời, đầy đủ, đảm bảo tính cập nhật và nhất quán. Tầm quan trọng của công tác xếp hạng tín nhiệm nhiều khi chưa được quan tâm đúng mức. Công tác phổ biến, tuyên truyền thông tin về xếp hạng tín nhiệm, đặc biệt là việc làm rõ các căn cứ, quy trình đánh giá và vai trò định mức tín nhiệm quốc gia đối với nền kinh tế và công tác huy động vốn vay nước ngoài.

(4) Đề tài đã đề xuất được những nhóm giải pháp mang tính dài hạn cũng như trước mắt nhằm cải thiện các yếu tố nội lực của nền kinh tế để cải thiện và giảm thiểu các yếu tố tác động đến xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam gồm:

+ Về chính trị và thể chế: Cần tăng cường sự ổn định chính trị, nâng cao tính kỷ cương, kỷ luật và các hoạt động của đất nước trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật; Không ngừng thực hiện có hiệu quả chính sách an sinh xã hội nhằm giảm thiểu khoảng cách giàu nghèo, bất bình đẳng giữa các đối tượng, vùng, miền và khu vực địa lý; Có cơ chế công khai và thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng. Các mục tiêu, quyết định mang tính chính sách phải đảm bảo sự minh bạch, đồng thuận của người dân và xã hội; Có chính sách đối ngoại phù hợp, nhất là đối với các quốc gia láng giềng, duy trì và củng cố hoà bình, đồng thời tránh xảy ra các xung đột mang tính khu vực.

+ Điều hành kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế, góp phần tăng cường hệ số tín nhiệm quốc gia: Theo đó, thực hiện đầy đủ, nhất quán và triệt để các đề án tái cơ cấu kinh tế, đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước, hệ thống các tổ chức tín dụng, tái cấu trúc thị trường chứng khoán và các định chế tài chính, nhằm góp phần tăng trưởng và phát triển bền vững; Xây dựng và thực hiện các giải pháp đồng bộ để đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu thông qua việc tăng cường xúc tiến thương mại để đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đổi mới công nghệ, tiết kiệm năng lượng, vật tư, giảm chi phí đầu vào, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu; Thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ phấn đấu giảm bội chi ngân sách nhà nước về mức dưới 4% GDP vào năm 2020; Điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng và linh hoạt theo tín hiệu thị trường; chuyển dần điều hành chính sách tiền tệ sang chủ yếu bằng các công cụ thị trường, tiến tới điều hành theo lạm phát mục tiêu với mức lạm phát hàng năm ở mức dưới 5% trong trung và dài hạn. Tăng cường hiệu quả công tác quản lý nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia theo hướng tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và công cụ quản lý nợ; nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn vay; tăng cường công tác giám sát, quản lý rủi ro, bảo đảm an toàn về nợ và an ninh tài chính quốc gia; phát triển thị trường trái phiếu chính phủ; tăng cường quản lý nợ Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước; công khai, minh bạch thông tin về nợ; hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý nợ, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hoá và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nợ.

+ Nâng cao tính chuyên nghiệp trong công tác đánh giá xếp hạng tín nhiệm quốc gia. Cụ thể, tiếp tục cải thiện tính công khai, minh bạch thông tin, phục vụ cho công tác đánh giá xếp hạng tín nhiệm quốc gia; Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan Việt Nam trong việc cung cấp thông tin và thực hiện công tác đánh giá xếp hạng tín nhiệm quốc gia; Tranh thủ hỗ trợ tư vấn quốc tế, chia sẻ kinh nghiệm và duy trì tiếp xúc thường xuyên với các tổ chức xếp hạng tín nhiệm; Đảm bảo kinh phí cho công tác xếp hạng tín nhiệm quốc gia trong kế hoạch ngân sách nhà nước hàng năm, đặc biệt kinh phí xây dựng, duy trì hoạt động trang mạng, tuyên truyền, quảng bá và xây dựng báo cáo tổng quan về Việt Nam để giới thiệu cho các nhà đầu tư quốc tế; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, công nghệ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đánh giá xếp hạng tín nhiệm quốc gia.

 

Nguồn: https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin?dDocName=MOFUCM153158